Tin tức & Thông cáo Báo chí từ Việt Nam | News & Press Releases from Vietnam

Cách Công Ty Walt Disney Đạt Tới 100 Tuổi

Ngày 16 tháng 10 này đánh dấu kỷ niệm 100 năm thành lập Công ty Walt Disney. Với hơn 200.000 nhân viên và vốn hóa thị trường vượt quá 150 tỷ USD, đây là một trong những tập đoàn truyền thông thành công và ảnh hưởng nhất thế giới. Nhưng may mắn đó không phải là điều hiển nhiên. Thực tế, cách đây 40 năm, Disney gần như sụp đổ. Dễ dàng quy kết sự tồn tại của nó cho các nhà kinh doanh giỏi, bao gồm cả người sáng lập danh tiếng của công ty. Nhưng sự bền bỉ của nó phần lớn là nhờ những người kể chuyện: họa sĩ hoạt hình, diễn viên, biên kịch, nhạc sĩ, đạo diễn và nhà sản xuất.

Trong những năm đầu, Walt Disney Productions (tên từ năm 1929 đến 1986) là nhà sản xuất độc lập. Phim hoạt hình ngắn và sau đó là phim điện ảnh của họ được phát hành thông qua các thỏa thuận phân phối với các hãng phim lớn ở Hollywood, bao gồm Columbia, United Artists và RKO Pictures.

Sau đó, vào năm 1953, Disney thành lập công ty phân phối riêng của mình, Buena Vista. Thay vì phụ thuộc vào các hãng phim khác, Disney giờ đây có thể tự xử lý việc phát hành các sản phẩm của mình. Năm sau, Walt Disney bắt đầu tổ chức một chương trình truyền hình trên ABC mang tên Disneyland để hỗ trợ tài chính và quảng bá cho công viên chủ đề mới mang cùng tên ở Anaheim, California, được mở cửa cho công chúng vào năm 1955. Với chiến lược tiếp thị toàn diện, Walt Disney Productions củng cố vị thế của mình tại Hollywood bằng cách trở thành một công ty truyền thông đa dạng với một loạt đầu tư và lợi ích có thể quảng bá hiệu quả.

Nhưng sau khi Walt Disney qua đời năm 1966, công ty suy giảm không có nhà lãnh đạo sáng tạo mạnh. Phim hoạt hình The Jungle Book thành công, nhưng suốt thập kỷ 1970, phản hồi phê bình và doanh thu phòng vé đối với các bộ phim như Pete’s Dragon (1977) và The Fox and the Hound (1981) trộn lẫn và thường không đạt kỳ vọng. Do đó, sản xuất phim của xưởng phim chậm lại. Các nhà quản lý chuyển sự chú ý sang các công viên chủ đề sinh lợi hơn, bao gồm Công viên giải trí Walt Disney thế giới, mở cửa tại Florida năm 1971. Trong khi đó, công ty công khai thừa nhận rằng nó đang vật lộn với tính khả thi của hình ảnh an toàn, thân thiện gia đình trước sự phổ biến ngày càng tăng của các bom tấn hướng tới thanh thiếu niên từ George Lucas và Steven Spielberg.

Nhưng bên ngoài bộ phận phim ảnh, vẫn có những thành công đáng chú ý. Năm 1982, công ty mở một công viên nữa ở Florida: EPCOT. Tokyo Disneyland, mà Disney quyết định cấp phép thay vì quản lý, cũng là thành công đáng kể đối với công ty và các đối tác kinh doanh của nó tại Nhật Bản vào năm 1983. Cùng năm đó, Disney ra mắt Kênh Disney như một kênh truyền hình cáp dựa trên đăng ký, trong khi đầu năm 1984, công ty thành lập Touchstone Films để sản xuất giải trí hướng tới người lớn khác biệt so với thương hiệu thân thiện gia đình của Walt Disney Productions.

Disney có thể gặp khó khăn tại phòng vé, nhưng đối với Wall Street, nó vẫn có hai tài sản quý giá: các công viên chủ đề phổ biến và thư viện phim hùng hậu. Doanh nhân Saul P. Steinberg nắm lấy cơ hội để cố gắng tiến hành sáp nhập thù địch. Các nhà quản lý chống lại nỗ lực của ông bằng cách gán nợ cho công ty và sau đó mua lại cổ phiếu của Steinberg với mức chiết khấu cao hơn. Tuy nhiên, sự tin tưởng của hội đồng quản trị vào quyết định của các nhà quản lý bị suy giảm. Họ sa thải các nhà quản lý, bao gồm con rể và chủ tịch công ty của Walt, Ron. W. Miller, thay thế bằng Michael Eisner và Frank Wells.

Là CEO mới, Eisner bắt đầu thúc đẩy ý tưởng về một thời kỳ Phục hưng của Disney. Cùng với Jeffrey Katzenberg, Eisner bắt đầu làm việc để thực hiện lời hứa này bằng cách tập trung lại sản xuất phim điện ảnh và truyền hình. Chính quyền Disney mới tìm thấy thành công sớm nhất trong các bộ phim hài và phim truyện cho người lớn. Trong lĩnh vực điện ảnh, họ mang đến cho khán giả Splash (1984), Down and Out in Beverly Hills (1986), The Color of Money (1986), Ruthless People (1986), và trên truyền hình, The Golden Girls (1985-1992). Những dự án này thành công phần lớn nhờ sức mạnh của các ngôi sao thành lập và nổi lên, bao gồm Tom Hanks, Paul Newman, Tom Cruise, Bette Midler, Bea Arthur và Betty White.

Nhưng Eisner và Katzenberg ít hào hứng hơn với vai trò mà phim hoạt hình sẽ đóng trong một thời kỳ Phục hưng doanh nghiệp bởi chúng tốn kém và mất thời gian để sản xuất, phản ứng của khán giả khó đoán trước. Họ duy trì bộ phận này của công ty chủ yếu do sự khẳng định của cháu trai Walt, Roy E. Disney. Tuy nhiên, một bước đi thử nghiệm vào thị trường đĩa đã mang lại một động lực bất ngờ cho doanh thu mảng kinh doanh này của Disney.

Xuyên suốt thập niên 1980, hoạt hình Disney từ từ cho thấy dấu hiệu sống lại mới. Việc sử dụng hình ảnh tạo bằng máy tính trong Tron (1982), The Black Cauldron (1985) và The Great Mouse Detective (1986), cùng với những trò nghịch ngợm hành động trong Oliver & Company (1988) và Who Framed Roger Rabbit? (1988) cho thấy sự sáng tạo được hồi sinh trong hoạt hình điện ảnh. Sự tham gia của các nhân vật từ thế giới sân khấu, bao gồm Howard Ashman và Alan Menken, giới thiệu cách tiếp cận sân khấu cho câu chuyện âm nhạc, lần đầu tiên trong The Little Mermaid (1989), sau đó có hiệu quả hơn trong Beauty and the Beast (1991), bộ phim hoạt hình đầu tiên được đề cử giải Oscar cho Phim xuất sắc nhất.

Aladdin (1992), The Lion King (1994), Pocahontas (1995) tiếp tục kết hợp sân khấu và hoạt hình thành công cả về mặt chuyên môn và doanh thu. Chuỗi phim hoạt hình này đặc biệt quan trọng vì hai lý do. Thứ nhất, chúng chuyển hướng của các nhà quản lý từ sản xuất phim điện ảnh sang hoạt hình. Và thứ hai, chúng hồi sinh công thức ban đầu của Walt Disney, đặt hoạt hình điện ảnh ở trung tâm hoạt động của công ty và sau đó cho phép nó thúc đẩy các bộ phận khác, bao gồm âm nhạc, xuất bản, truyền hình và công viên chủ đề.

Tóm lại, các sáng tạo nghệ thuật của các nhà kể chuyện thông qua diễn xuất, ca hát, viết kịch bản, sáng tác và hoạt hình đã buộc các nhà quản lý phải tái cân nhắc và chuyển hướng chiến lược doanh nghiệp. Đương nhiên, đây không phải là một quá trình dễ dàng. Các nhà kể chuyện đã vận động, tranh luận, thậm chí đối đầu với nhau và với các nhà quản lý để bảo vệ các quyết định sá