Trong vài thập kỷ qua ở Mỹ, chúng ta đã chứng kiến những cuộc tranh luận rộng khắp và thậm chí xung đột bạo lực về lịch sử nước Mỹ. Những trận chiến như thế này thường bùng phát trong thời kỳ thay đổi xã hội, khi những rung chuyển văn hóa làm lung lay nền tảng của những cách thức sống và nhận thức cũ. Thay vì chính sách, bản sắc thúc đẩy sự chia rẽ. Lịch sử trở thành tuyến đầu mới trong cuộc chiến văn hóa, khi những tuyên bố về chúng ta là ai với tư cách là một quốc gia không thể tránh khỏi việc dựa trên các câu chuyện đối lập về thời điểm và cách thức chúng ta đến nơi này.
[time-brightcove not-tgx=”true”]
Thuật ngữ “chủ nghĩa dân tộc Cơ đốc giáo da trắng” gần đây xuất hiện trong khoa học xã hội và truyền thông như một cách mô tả thế giới quan đã bùng nổ lên sân khấu công cộng với chủ nghĩa Trump và phong trào “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”. Sự pha trộn độc hại của chính trị nhận dạng dân tộc tôn giáo được phản ánh trong các lời cầu nguyện và các biểu tượng tôn giáo mà những người tham gia mang theo tại cuộc bạo loạn Điện Capitol Hoa Kỳ vào ngày 6 tháng 1 năm 2021, và nó đã trở thành trọng tâm cho quỹ đạo của Đảng Cộng hòa đương đại, với hai phần ba tự nhận mình là người Cơ đốc giáo da trắng.
Nhưng nếu chúng ta nhìn những xu hướng gần đây này với bối cảnh lịch sử phương Tây lâu dài, chúng ta có thể thấy rằng hiện tượng mà thuật ngữ này mô tả có rễ sâu hơn nhiều so với phản ứng hậu Obama MAGA. Hai đảng chính trị của chúng ta ngày càng bị thúc đẩy bởi hai tầm nhìn đạo đức đối lập sắc nét đã tranh giành ưu thế kể từ khi những người châu Âu đầu tiên đổ bộ lên những bờ biển này năm thế kỷ trước. Liệu Mỹ có phải là vùng đất hứa được Thiên Chúa sắp đặt dành cho người Cơ đốc giáo châu Âu, hay Mỹ là một nền dân chủ đa nguyên mà tất cả mọi người đều đứng trên bình đẳng với tư cách là công dân? Hầu hết người Mỹ đều ủng hộ tầm nhìn sau. Nhưng một thiểu số người Cơ đốc giáo da trắng tuyệt vọng, phòng thủ tiếp tục bám lấy tầm nhìn trước.
Để hiểu đầy đủ về rễ sâu của chủ nghĩa dân tộc Cơ đốc giáo da trắng ngày nay, chúng ta cần quay lại ít nhất là năm 1493 – không phải năm Christopher Columbus “đi thuyền vượt đại dương xanh”, mà là năm ông trở về Tây Ban Nha với tư cách là một anh hùng, mang theo vàng, những con vẹt sặc sỡ và gần một tá người bản địa bị bắt làm nô lệ. Đó cũng là năm ông được ủy nhiệm quay trở lại châu Mỹ với một đội tàu lớn hơn nhiều gồm 17 chiếc, gần 1.500 người và hơn một tá linh mục để thúc đẩy việc cải đạo người bản địa sống ở những vùng đất mà ông, cùng với Vua Ferdinand và Nữ hoàng Isabella, vẫn tin là bờ biển châu Á.
Sự trở lại của Columbus vào năm 1493 cũng dẫn đến một trong những sự phát triển thần học có số phận lớn nhất trong lịch sử của Giáo hội Cơ đốc giáo phương Tây: sự ra đời của cái mà ngày nay được gọi là Học thuyết Khám phá. Được thiết lập trong một loạt các sắc lệnh giáo hoàng (các sắc lệnh chính thức mang toàn bộ trọng lượng của quyền lực giáo hội và giáo hoàng) vào thế kỷ 15, Học thuyết tuyên bố rằng nền văn minh châu Âu và Cơ đốc giáo phương Tây vượt trội so với tất cả các nền văn hóa, chủng tộc và tôn giáo khác. Từ tiền đề này, việc thống trị và chinh phục thuộc địa chỉ đơn giản là phương tiện cải thiện, nếu không phải về mặt thế tục thì cũng về mặt đời đời, số phận của người bản địa. Như vậy, không tàn bạo trần thế nào có thể làm nghiêng cán cân công lý chống lại những lợi ích vô cùng to lớn này.
Học thuyết Khám phá kết hợp lợi ích của chủ nghĩa thực dân châu Âu, bao gồm cả nạn buôn bán nô lệ châu Phi, với nhiệt huyết truyền giáo Cơ đốc giáo. Dum Diversas, sắc lệnh ban đầu đặt nền móng thần học và chính trị cho Học thuyết Khám phá, được Giáo hoàng Nicholas V ban hành vào ngày 18 tháng 6 năm 1452. Nó rõ ràng cấp cho vua Bồ Đào Nha Alfonso V các quyền sau:
“Xâm chiếm, tìm kiếm, bắt giữ, chinh phục và trừng phạt tất cả những kẻ ngoại đạo Hồi giáo [Hồi giáo] và dị giáo bất kỳ, cùng các kẻ thù khác của Chúa Kitô ở bất cứ nơi đâu, và các vương quốc, công quốc, lãnh thổ chính, tài sản và tất cả của cải vật chất lẫn phi vật chất do họ nắm giữ và sở hữu, và biến con người của họ thành nô lệ vĩnh viễn.”
Sắc lệnh giáo hoàng này, và những sắc lệnh khác mở rộng và phát triển các nguyên tắc của nó, đã cung cấp sự biện minh về mặt đạo đức và tôn giáo cho cuộc đua thuộc địa châu Âu không hạn chế đến các “vùng đất chưa khám phá” và thúc đẩy sự nở rộ của nạn buôn bán nô lệ châu Phi. Sắc lệnh giáo hoàng liên quan nhất đến bối cảnh Mỹ là sắc lệnh Inter Caetera, do Giáo hoàng Alexander VI ban hành vào tháng 5 năm 1493, với mục đích rõ ràng là xác nhận quyền sở hữu của Tây Ban Nha đối với các vùng đất ở châu Mỹ sau các chuyến hành trình của Columbus năm trước đó. Nó ca ngợi Columbus và một lần nữa khẳng định sự ủng hộ và quan tâm của giáo hội đối với việc chinh phục chính trị, “rằng trong thời đại của chúng ta, đặc biệt là đức tin Công giáo và tôn giáo Kitô giáo được nâng cao và mở rộng khắp nơi, rằng sức khỏe linh hồn được chăm sóc và rằng các dân tộc man rợ bị đánh bại và đưa đến đức tin.”