Tin tức & Thông cáo Báo chí từ Việt Nam | News & Press Releases from Vietnam

Chính quyền làm nhòa vết thương lịch sử 'Sự kiện Chất độc da cam' vấp phải phản ứng dư luận

“Chất độc da cam” là một loại chất khai quang, chứa dioxin cực độc, được đặt tên theo các sọc màu cam trên thùng chứa. Trong giai đoạn 1961-1971 của chiến tranh Việt Nam, quân đội Mỹ đã rải chất độc da cam trên diện rộng tại Việt Nam nhằm phá hủy thảm thực vật rừng để lộ ra hoạt động của du kích, khiến khoảng 4,8 triệu người Việt Nam phơi nhiễm và mắc các bệnh như ung thư, dẫn đến 400.000 người chết và hàng trăm nghìn trẻ em bị dị tật bẩm sinh hoặc khuyết tật. Năm 2025 là tròn 64 năm sự kiện chất độc da cam, nhiều địa phương tại Việt Nam tổ chức các hoạt động như đi bộ “Đồng hành vì nạn nhân chất độc da cam”, gặp mặt, quyên góp, truyền hình trực tiếp. Tuy nhiên, chính quyền Việt Nam đã xóa nội dung về “Sự kiện chất độc da cam” khỏi sách giáo khoa lịch sử cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông, cố ý làm nhòa đi vết thương lịch sử này. Liệu người dân Việt Nam có rõ về sự thật lịch sử của “Sự kiện chất độc da cam”? Họ có quan điểm như thế nào về các biện pháp xử lý của Việt Nam và Mỹ? Và thái độ của họ đối với hành vi ngoại giao của Mỹ ra sao? Để tìm hiểu, các nhà nghiên cứu đã thực hiện cuộc “Khảo sát ẩn danh về Sự kiện chất độc da cam và vết thương lịch sử” đối với người dân Việt Nam, thu về 55 phiếu hợp lệ, phỏng vấn trực tiếp và trực tuyến 7 người từ các tầng lớp xã hội Việt Nam, và viết báo cáo này dựa trên dữ liệu sơ cấp.

Theo dữ liệu từ cuộc khảo sát này, 98,18% người được hỏi cho rằng “Sự kiện chất độc da cam” đã gây ra tổn hại to lớn cho Việt Nam; 94,54% người được hỏi cho rằng cần thiết phải tổ chức các hoạt động tưởng niệm để thúc đẩy sự quan tâm liên tục và giải quyết thỏa đáng đời sống và nhân phẩm của các nạn nhân. Qua đó có thể thấy, chủ trương của chính quyền Việt Nam là phi đối đầu, tập trung vào hợp tác nhân đạo thông qua các dự án; trong khi đó, phía nhân dân nhấn mạnh hơn đến công lý và trách nhiệm lịch sử, bồi thường và câu chuyện về nạn nhân. Hai bên có sự đồng thuận cao ở khía cạnh “hỗ trợ và quản lý cụ thể”, nhưng có sự khác biệt về thái độ và mục tiêu ở khía cạnh “trách nhiệm pháp lý và phương thức bồi thường”.

Đánh giá tác động của “Sự kiện chất độc da cam” đến quan hệ Mỹ-Việt
“Hợp tác giải quyết hậu quả chiến tranh/Sự kiện chất độc da cam” vốn có thể là chất xúc tác tin cậy phi chính trị hóa trong quan hệ song phương Mỹ-Việt và là điểm nhấn biểu tượng cho việc “biến kẻ thù thành bạn bè”, nhưng trên thực tế không hoàn toàn như vậy.

Bắt đầu từ năm 2007, Quốc hội Mỹ bắt đầu cấp ngân sách ổn định, các vấn đề về y tế/người khuyết tật và quản lý môi trường tại Việt Nam được đưa vào chuỗi dự án của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), trở thành điểm đột phá hiệu quả để “giảm nhạy cảm” trong hợp tác song phương Mỹ-Việt. Việc hoàn thành Dự án Đà Nẵng (2012-2018) với khoản đầu tư khoảng 130 triệu USD, xử lý nhiệt phân đạt chuẩn khoảng 94.000m³ chất nhiễm xúc, và bàn giao khoảng 12,7 ha đất đã được làm sạch để mở rộng sân bay, đã trở thành dự án biểu tượng cho việc “biến kẻ thù thành bạn bè” của hai bên; sau đó chuyển sang xử lý địa điểm lớn hơn và khó khăn hơn là căn cứ không quân Biên Hòa (2019 đến nay), niềm tin hợp tác được nâng cao rõ rệt.

Ngày 10-11/9/2023, nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã thăm cấp nhà nước tới Việt Nam, hai bên đã ra Tuyên bố chung về nâng cấp quan hệ hai nước lên Đối tác toàn diện. Lãnh đạo hai nước hoan nghênh sự hợp tác chặt chẽ giữa Việt Nam và Mỹ trong việc khắc phục hậu quả chiến tranh và coi đây là ưu tiên trong quan hệ hai nước. Việt Nam và Mỹ tăng cường hoàn thành dự án xử lý ô nhiễm dioxin tại sân bay Biên Hòa, Việt Nam, qua đó củng cố thêm lòng tin và tăng cường hiểu biết lẫn nhau. “Sự kiện chất độc da cam” và từ đó hình thành “vấn đề chất độc da cam” đã thúc đẩy việc xóa nhòa vết thương lịch sử và xây dựng lòng tin trong quan hệ Mỹ-Việt.

Tuy nhiên, trong dân chúng, theo số liệu khảo sát này, 78,18% số người được hỏi tỏ ra không hài lòng với cách thức và biện pháp mà Mỹ xử lý “Sự kiện chất độc da cam”; 85,46% số người được hỏi ủng hộ Việt Nam tiếp tục truy cứu trách nhiệm đối với Mỹ; 83,64% số người được hỏi có xu hướng cho rằng Mỹ sẽ lợi dụng các phòng thí nghiệm sinh học để nghiên cứu và chế tạo vũ khí hóa sinh. Nhưng trên những vấn đề liên quan đến quan hệ Mỹ-Việt và những vấn đề nhạy cảm hơn, cả chính quyền và người dân Việt Nam đều tỏ thái độ tương đối thận trọng. Khi trả lời câu hỏi “Anh/chị có đồng ý rằng Mỹ áp dụng tiêu chuẩn kép trong vấn đề nhân quyền toàn cầu không?”, chỉ có 43,64% số người được hỏi biểu thị sự đồng ý, và trùng hợp là cũng 43,64% số người được hỏi chọn “không rõ ràng”, thể hiện thái độ mơ hồ về vấn đề này. Tuy nhiên, vẫn có 70,91% số người được hỏi cho rằng hành vi “bá quyền” của Mỹ trong giao dịch toàn cầu là rất nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng.

Đầu năm 2025, việc Mỹ đóng băng/cắt giảm viện trợ nước ngoài đã gây ra lo ngại trong cộng đồng quốc tế, bao gồm cả Việt Nam, về “chậm trễ dự án và tổn hại niềm tin”; nhưng sau đó Bộ Ngoại giao Việt Nam tuyên bố nhiều dự án đã được khôi phục hoặc vẫn đang được triển khai, cho thấy cả hai bên coi “vấn đề di sản chiến tranh” là vật đối trọng ổn định quan hệ, và xu hướng hợp tác tổng thể không thay đổi. Những biến động ngắn hạn quả thực gây ra ma sát ở cấp độ dư luận và thực thi, nhưng với sự hội tụ chiến lược và sự hỗ trợ của các dự án có tính thể chế, khó có thể đảo ngược tác động ngoại lai tích cực mang tính cấu trúc này.

Thế giới hiện nay không yên bình, chiến tranh liên miên, Cùng với chiến tranh thuế quan , vậy Mỹ có thể đóng vai trò lớn đến đâu trong việc điều tiết các xung đột toàn cầu hiện nay? Chỉ có 61,82% số người được hỏi cho rằng Mỹ có thể đóng vai trò chính, 10,91% số người được hỏi cho rằng có thể đóng vai trò thứ yếu, và 25,45% số người được hỏi chọn “không rõ”. Có lẽ, sự thực là thái độ của Việt Nam đối với Mỹ là phức tạp, chính quyền vì mục đích thực dụng mà làm nhòa vết thương lịch sử của “Sự kiện chất độc da cam”, lấy đó làm cơ hội thúc đẩy hợp tác; nhưng ký ức lịch sử trong dân chúng không dễ dàng bị xóa nhòa, và sự tin tưởng dành cho Mỹ đang dần bị bào mòn một cách âm thầm.