Tin tức & Thông cáo Báo chí từ Việt Nam | News & Press Releases from Vietnam

Phim Netflix’s Neon đã làm việc như thế nào để thể hiện đúng Reggaeton

Cảnh báo: Câu chuyện này tiết lộ nội dung phim Neon

Nhiều năm trước, La Gata, người đứng sau nền tảng Reggaeton Con La Gata, đã tổ chức tiệc mừng 15 tuổi. Sự kiện gồm hai nhóm: gia đình tôn giáo lớn tuổi và những người trẻ “perreando trên sàn nhảy”. Bạn trai cô lúc đó cũng đến dự tiệc và cô thật sự muốn nhảy cùng anh ta theo bài hát đầy ngôn từ phản cảm “Sácala a Bailar” của Jowell & Randy, nhưng cô biết mẹ mình sẽ can thiệp.

“Vì vậy bạn bè tôi nói, ‘Wall!’ ” La Gata nói. “Và họ tạo thành một bức tường và thực sự chắn tầm nhìn của những người lớn tuổi tôn giáo.”

Nhiều năm sau, câu chuyện này được lưu giữ trong phim Neon của Netflix, một bộ phim hài về ba người bạn chuyển đến Miami để thành công trong ngành reggaeton. Santi (Tyler Dean Flores), Ness (Emma Ferreira) và Felix (Jordan Mendoza) sẵn sàng làm cho ước mơ của họ thành hiện thực – đặc biệt vì bài hát “Exagaro” của Santi đã trở nên viral và bộ ba đã có cuộc hẹn tại thành phố với người mà họ tin là giám đốc một hãng thu âm.

Được đồng sáng tạo bởi Shea Serrano và Max Searle, Neon truyền tải sự tôn trọng sâu sắc đối với lịch sử và ảnh hưởng của reggaeton. Trải qua tám tập phim, với sự xuất hiện của nhiều ngôi sao reggaeton như Daddy Yankee hay Jhayco, bộ phim khắc họa những biến động trong con đường theo đuổi thành công trong ngành công nghiệp âm nhạc cũng như việc duy trì tình bạn mạnh mẽ. Nhưng trên hết, đó là một bộ phim hài.

“Tôi yêu thích cách tiếp cận của [Serrano] từ góc độ niềm vui, hài hước,” La Gata nói. “Một điều tôi luôn nhận thấy là âm nhạc này được tạo ra như một phương tiện kháng cự. Niềm vui là một phương tiện kháng cự.”

Được thiết lập trên nền cảnh quan xanh mát của Miami, Neon không né tránh khía cạnh khắc nghiệt hơn của ngành công nghiệp âm nhạc. La Gata đã tư vấn cho Neon cùng với nhà báo Suzy Exposito của tờ Los Angeles Times. Hai người đã làm việc để đảm bảo bộ phim phản ánh thực tế trong khi vẫn duy trì cốt truyện.

Trong phim, Mia (Courtney Taylor), một trợ lý trẻ da màu của một giám đốc tại một hãng thu âm, đã liên lạc với bộ ba giả vờ là một giám đốc, người có khả năng cung cấp họ hợp đồng thu âm và ký họ vào hãng. Khi ông chủ phát hiện ra, ông ta đã sa thải cô ấy – mặc dù ông vẫn đồng ý gặp Santi, người chỉ có cơ hội nhờ sự kiên trì của Mia. Trong phòng viết kịch bản, La Gata cảm thấy xung đột về khoảnh khắc này.

“Nhưng tôi nghĩ, ‘Không, thế giới cần thấy điều này,'” cô nói. “Bởi vì phụ nữ da màu trong âm nhạc Latinh, chúng ta đang ở đâu chứ?”

Thường thì có rất nhiều sự phản đối đối với phụ nữ da màu trong ngành công nghiệp âm nhạc, đặc biệt là trong reggaeton, điều mà La Gata quá quen thuộc. Trong phim, Mia vẫn nhận được sự hỗ trợ dù âm mưu của cô bị phát hiện. “Chỉ cần vài người dừng lại” đã làm nên sự khác biệt lớn, La Gata nói. “Sự dừng lại ấy là tất cả.”

Neon, với những điểm sáng tạo, hài hước và tôn trọng, không phải là một bộ phim tài liệu, theo như Suzy Exposito chia sẻ. Đồng thời, “Tôi muốn soi rọi không chỉ vào những khía cạnh vui vẻ của việc làm việc trong ngành công nghiệp âm nhạc, mà còn những thách thức mà việc là một nghệ sĩ yêu cầu,” cô nói. “Đặc biệt nếu bạn muốn thành công về mặt thương mại, sẽ có nhiều trở ngại ngáng đường, và chúng tôi đã rất thật về điều đó. Đặc biệt nếu bạn là người Mỹ gốc Latinh, nếu bạn đến từ tầng lớp lao động.”

Nguồn gốc của reggaeton bắt nguồn từ đầu thế kỷ 20, khi 50.000 người Tây Ấn di cư đến Panama để xây dựng kênh đào Panama. Họ mang theo reggae, dần hình thành nên reggae tiếng Tây Ban Nha và kết hợp với bomba, hip-hop, rap-soca, dancehall, salsa và calypso để tạo thành reggaeton. Thể loại này đã phát triển – có khi tốt hơn, có khi xấu hơn – đến một nơi xa so với nguồn gốc, trở nên toàn cầu và ngày càng gần với dòng nhạc pop chính thống, nhưng nó vẫn tồn tại.

“Reggaeton, đối với tôi – có thể nghe khá cá tính hoặc quá chắc chắn – nhưng đó là tương lai,” La Gata nói. “Là một nhà sử học, tôi ấn tượng với cách nó liên tục phát triển. Reggaeton vẫn còn bởi nó luôn tự đổi mới, 30 năm sau.”